CÔNG VĂN GIẢI ĐÁP VƯỚNG MẮC VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ, VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 09/9/2024, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Công văn số 3854/VKSTC-V9 Giải đáp vướng mắc về kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình.
Một số vướng mắc được giải đáp:
Hỏi: Hiện nay có Tòa án cho rằng trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng đất đó xuất phát từ hợp đồng hoặc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án vận dụng điểm 2 Mục II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án là của TAND cấp huyện. Việc áp dụng pháp luật như vậy có đúng không? (các VKSND tỉnh Phú Thọ, Đắk Nông)
Trả lời:
Khoản 4 Điều 34 BLTTDS quy định “Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Điểm 2 Mục II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC có nội dung: “...việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt...Cho nên, khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng”. Như vậy, trong vụ án tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, có yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực hoặc yêu cầu huỷ xác nhận biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì TANDTC cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác nhận biến động trong trường hợp này không phải là quyết định hành chính cá biệt, do đó, các Toà án cấp dưới không xác định thuộc thẩm quyền TAND cấp tỉnh theo khoản 4 Điều 34 BLTTDS.
Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật như trên chỉ đối với vụ án tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, đối với vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất có yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, huỷ xác nhận biến động thì việc xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án thực hiện theo khoản 4 Điều 34 BLTTDS.
Hỏi: Công văn số 1083/VKSTC-V9 ngày 26/3/2024 của VKSND tối cao giải đáp vướng mắc trong công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình (Câu 30) có nêu: “Người được nhận kỷ phần thừa kế do người khác nhường phải chịu án phí dân sự có giá ngạch trên cơ sở giá trị kỷ phần được nhận từ người khác, trừ trường hợp họ được miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH”. Giải đáp này chưa thống nhất với Thông báo rút kinh nghiệm số 63/TB-VC1-V2 ngày 15/9/2023 của VKSND cấp cao tại Hà Nội: Theo quy định tại điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì đương sự phải chịu án phí sơ thẩm theo mức tương đương với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng trong khối di sản thừa kế, trường hợp người được hưởng phần di sản thừa kế mà tặng phần di sản mình được hưởng cho người khác thì họ vẫn phải chịu án phí; còn người được nhận kỷ phần thừa kế do người khác nhường thì không phải chịu án phí (VKSND tỉnh Quảng Ninh).
Trả lời:
Điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Đối với vụ án liên quan đến chia tài sản chung, di sản thừa kế thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau: a) Khi các bên đương sự không xác định được phần tài sản của mình hoặc mỗi người xác định phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, phần di sản của mình trong khối di sản thừa kế là khác nhau và có một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, di sản thừa kế đó thì mỗi bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia, được hưởng trong khối tài sản chung hoặc trong khối di sản thừa kế...”.
Như vậy, trường hợp bản án đã tuyên rõ B là người được nhận kỷ phần thừa kế của A do A nhường (tặng cho) thì cần hiểu B mới là người được hưởng tài sản trong khối di sản thừa kế (và trên thực tế B là người được nhận phần này). Quyền và nghĩa vụ của B được thực hiện theo bản án của Toà án nên xác định B phải nộp án phí đối với kỷ phần được người khác nhường (tặng cho) là phù hợp về pháp luật và thực tế, công bằng với người đã nhường (tặng cho) phần của mình cho người khác.
Hỏi: Việc xác định nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm trong giải quyết tranh chấp xác định cha cho con còn chưa thống nhất. Có Toà án áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận” để buộc bị đơn phải chịu án phí không có giá ngạch. Có Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về người xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí để không buộc bị đơn phải chịu án phí (VKSND tỉnh Quảng Ninh)
Trả lời:
Điều 9 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án, trừ trường hợp không phải nộp hoặc được miễn nộp...theo quy định của Nghị quyết này”. Như vậy, chủ thể có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án là cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Điểm b khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “1. Những trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:...b) Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự”. Quy định này được hiểu là trong vụ án dân sự hoặc việc dân sự, người đưa ra yêu cầu xác định cha cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự sẽ được miễn nộp tiền tạm ứng án phí; nếu yêu cầu không được Toà án chấp nhận thì họ vẫn được miễn nộp án phí. Mặc dù quy định dùng từ “trường hợp” nhưng việc miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí chỉ dành cho chủ thể là người yêu cầu, không phải là miễn cho tất cả các chủ thể trong vụ án.
Như vậy, trong vụ án tranh chấp xác định cha cho con, nguyên đơn đưa ra yêu cầu xác định cha cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà yêu cầu không được Toà án chấp nhận thì họ vẫn được miễn nộp án phí; nếu yêu cầu được Toà án chấp nhận thì bị đơn phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Nếu có yêu cầu xác định cha cho con mà người con không thuộc trường hợp chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự thì nghĩa vụ chịu án phí thực hiện theo quy định chung.
Hỏi: Trường hợp hợp đồng ủy quyền được lập ở nước ngoài, do đương sự ở nước ngoài ủy quyền cho người ở Việt Nam tham gia tố tụng giải quyết vụ án tại Toà án Việt Nam không ghi thời hạn ủy quyền. Điều 563 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời hạn ủy quyền là 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Vậy ngày nào là ngày xác lập việc ủy quyền (ngày người ủy quyền ký hợp đồng, ngày người nhận ủy quyền ký hợp đồng, ngày cơ quan chức năng của nước ngoài xác nhận hay ngày hợp pháp hóa lãnh sự)? (VKSND tỉnh Lâm Đồng)
Trả lời:
Trong trường hợp hợp đồng ủy quyền không ghi thời hạn ủy quyền thì vẫn có thể xác định thời hạn ủy quyền trên cơ sở các công việc được ủy quyền mà các bên đã thoả thuận, thống nhất trong hợp đồng (thời hạn ủy quyền bắt đầu từ thời điểm thực hiện công việc đầu tiên và kết thúc khi hoàn thành công việc cuối cùng được ủy quyền trong hợp đồng). Trường hợp này có thể xác định là các bên đã có thoả thuận về thời hạn ủy quyền.
Điều 563 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “nếu không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền”.
Khoản 4 Điều 400 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”. Xác lập việc ủy quyền là do ý chí của các bên quyết định nên thời điểm xác lập việc ủy quyền là thời điểm giao kết hợp đồng ủy quyền, là thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng ủy quyền.
Theo khoản 2 Điều 2, Điều 3 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hoá lãnh sự thì “hợp pháp hoá lãnh sự” là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên giấy tờ, tài liệu của nước ngoài để giấy tờ, tài liệu đó được công nhận và sử dụng tại Việt Nam, không bao hàm chứng nhận về nội dung và hình thức của giấy tờ, tài liệu. Như vậy, hợp pháp hoá lãnh sự là điều kiện để Toà án Việt Nam chấp nhận việc ủy quyền, cho phép người được ủy quyền được tham gia tố tụng chứ không phải là ngày xác lập, giao kết hợp đồng ủy quyền.
Hỏi: Đối với tranh chấp quyền sử dụng đất thì phải đáp ứng điều kiện khởi kiện đã qua hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo Điều 202 Luật Đất đai năm 2013, tuy nhiên trong thực tế có trường hợp hòa giải không có đủ thành phần theo quy định của pháp luật. Hiện có 02 quan điểm về vấn đề này như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng việc hòa giải thiếu thành phần hòa giải là không đủ điều kiện khởi kiện nên trả lại đơn khởi kiện cho đương sự. Quan điểm thứ hai cho rằng Điều 202 Luật Đất đai và Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC chỉ quy định điều kiện khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất là đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp, việc trả lại đơn khởi kiện với lý do việc hòa giải thiếu thành phần là không đúng (VKSND tỉnh Lâm Đồng).
Trả lời:
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định “Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”.
Theo khoản 1 Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 57 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017, được sửa đổi, bổ sung bởi các khoản 27, 28 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ thì khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện các công việc sau:
“a) Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất;
b) Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
c) Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành”.
Hiện nay, pháp luật không quy định nếu Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai không đủ thành phần thì cuộc họp hòa giải không được tiến hành hay việc hoà giải không có hiệu lực. Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai không đưa ra quyết định, không biểu quyết theo đa số. Hơn nữa, theo quy định trên thì Hội đồng có thành phần rất linh hoạt như “đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất; tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”. Do đó, có một số thành phần Hội đồng không mang tính bắt buộc.
Đối với tranh chấp đất đai cần qua thủ tục hoà giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp vì đây thuộc loại tranh chấp về quyền sở hữu (quyền sử dụng đất thuộc về ai) nên vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai tại nơi có đất là rất quan trọng (là nơi quản lý hồ sơ, tài liệu về nguồn gốc đất, nắm được quá trình sử dụng đất, những người sử dụng đất, việc thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất, thời điểm phát sinh tranh chấp...), đây là cơ sở để Toà án có được thông tin để giải quyết đúng đắn vụ án. Hơn nữa, việc hoà giải nhằm đến làm rõ quan điểm, ý chí, nguyện vọng của các bên, giúp các bên thoả thuận, thống nhất được với nhau để chấm dứt tranh chấp; do đó, khi các bên đã hoà giải không thành và khởi kiện thì không nên đặt nặng những vấn đề mang tính hình thức của việc hoà giải mà làm chậm trễ việc giải quyết tranh chấp của các bên. Vì vậy, quan điểm thứ hai là hợp lý.
Ngoài ra, Công văn còn giải đáp một số thắc mắc khác:
Về việc thực hiện Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và các văn bản khác có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án:
- Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo khoản 1 Điều 203 BLTTDS;
- Kháng nghị quá hạn của Viện kiểm sát;
- Việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát trước khi mở phiên toà;
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến sau khi người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong.
Về việc thực hiện Bộ luật Dân sự 2015:
- Chấm dứt hợp đồng ủy quyền không có thù lao;
- Thời điểm bắt đầu vụ kiện trong hợp đồng ủy quyền;
Bên cạnh đó, Công văn còn giải đáp thắc mắc về thực hiện hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
>>>Xem thêm: Công văn số 3854/VKSTC-V9 ngày 09/9/2024
____________________________________
Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL
Fanpage: https://www.facebook.com/congtyluatavcounsel
https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/
Website: https://avcounsel.com/
Email: info.avcounsel@gmail.com
Hotline: 094.333.4040
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Trân trọng./.
Xem thêm