MỐI QUAN HỆ GIỮA COVID 19 VÀ SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG
Quy định về sự kiện bất khả kháng cho một bên hoặc các bên trong hợp đồng được miễn trách nhiệm khi hoàn cảnh thay đổi dẫn đến việc các bên không thể thực hiện hợp đồng.
- Cơ sở pháp lý:
- Bộ Luật Dân sự 2015 (sau đây gọi là BLDS 2015);
- Luật Thương mại 2005 (sau đây gọi là Luật TM 2005).
- Nội dung:
1. Thế nào là sự kiện bất khả kháng
Định nghĩa sự kiện bất khả kháng được quy định tại Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015:
“… Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”
Cũng trong BLDS 2015 quy định về việc nghĩa vụ hông thực hiện đúng tại khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 như sau:
“ 2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Ngoài ra, trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành cũng có quy định về sự kiện bất khả kháng và việc quy định này cũng không có sự khác biệt với Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015.
2. Điều kiện cấu thành sự kiện bất khả kháng
Sự kiện bất khả kháng phải đáp ứng được 3 điều kiện:
- Sự kiện xảy ra một cách khách quan
- Sự kiện không thể lường trước được
- Sự kiện không thể khắc phục được
Nghĩa vụ chứng minh sự kiện bất khả kháng thuộc về bên bị ảnh hưởng muốn áp dụng sự kiện bất khả kháng để miễn trách nhiệm khi vi phạm và luôn được xác định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng sự kiện.
i) Sự kiện xảy ra một cách khách quan
BLDS 2015 không quy định rõ ràng để xác định một sự kiện được xem là xảy ra một cách khách quan. Theo đó, có thể hiểu sự kiện bất khả kháng là những sự kiện xảy ra ngoài dự đoán và không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Có thể hiểu, chúng ta phải đứng dưới gốc độ của các bên trong hợp đồng để xem xét tính khách quan. Thông thường, chúng ta phải xem xét các sự việc phát sinh xoay quanh hành vi hoặc lỗi của các bên hay là hoạt động kinh doanh thường ngày của họ có bị ảnh hưởng không.
+ Hành vi hoặc lỗi của các bên: sự kiện bất khả kháng được áp dụng khi các bên không thể kiểm soát được hoặc vượt qua sự kiểm soát của các bên. Do đó, các sự kiện này xảy ra không phải do hành vi hoặc do lỗi của các bên. Hành vi và lỗi của các bên ít khi được xem xét để áp dụng sự kiện bất khả kháng nhưng nhìn chung phải thực hiện xác định yếu tố khách quan trong sự kiện bất khả kháng nên cũng phải xem xét để phân biệt với những sự kiện mang yếu tố chủ quan. Nếu sự kiện bất khả kháng xảy ra do hành vi của các bên trong hợp đồng gây râ thì bên đó rất khó để viện dẫn điều khoản này để bảo vệ quyền lợi của họ
+ Đối với hoạt động kinh doanh hằng ngày của bên bị ảnh hưởng. Chúng ta có thể xem xét sự kiện khách quan dựa trên phạm vi nghĩa vụ, nghĩa là xem xét nó có dựa trên phạm vi nghĩa vụ được thực hiện trong hợp đồng không hoặc là chúng ta cũng có thể xem xét chúng trong rủi ro trong hoạt động kinh doanh thường ngày của bên bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, các sự kiện nằm trong phạm vi nghĩa vụ của bên bị ảnh hưởng hoặc gắn liền với rủi ro trong hoạt động kinh doanh thường ngày của bên bị ảnh hưởng khó có thể viện dẫn sự kiện bất khả kháng để miễn trừ nghĩa vụ của chúng.
ii) Sự kiện không thể lường trước được
- Sự kiện bất khả kháng xảy ra khi sự kiện này phải không nằm trong phạm vi có thể lường trước của các bên trong hợp đồng. Theo đó, bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng cần phải chứng minh rằng họ không bị lường trước được việc xảy ra sự kiện khách quan ngăn cản việc thực hiện hợp đồng và dẫn đến gây thiệt hại cho bên còn lại. Pháp luật dân sự hiện nay không quy định cụ thể thời điểm bên bị vi phạm không lường trước sự kiện bất khả kháng Thời điểm không lường trước được: tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dựa trên đặc điểm, hoàn cảnh lúc giao kết hợp đồng. Vì vậy, khi sự kiện bất khả kháng xảy ra có thể hiểu họ sẽ không thể lường trước tại thời điểm giao kết.
iii) Sự kiện không thể khắc phục mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép
Điều kiện thứ ba để nhằm viện dẫn áp dụng sự kiện bất khả kháng đó là các bên trong hợp đồng phải chứng minh được họ đã nỗ lực áp dụng mọi biện pháp cần thiết
- Biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép để khắc phục. Theo đó, để viện dẫn sự kiện bất khả kháng áp dụng thì người bị ảnh hưởng trước đó phải thực hiện các biện pháp bằng nỗ lực cao nhất trong khả năng của họ, phù hợp với nguyên tắc thiện chí, trung thực và hướng đến thực hiện hợp đồng dân sự. BLDS 2015 không quy đinh cụ thể về việc áp dụng các biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép để khắc phục sự kiện khách quan xảy ra là như thế nào. Chúng ta có thể hiểu rằng, bên viện dẫn điều khoản phải thực hiện các biện pháp hợp lý mà một bên tương tự đặt trong cùng hoàn cảnh sẽ thực hiện và các biện pháp này cần được đánh giá trong hoàn cảnh vụ thể của từng vụ việc cũng như hiệu quả kinh tế bị khi thực hiện các biện pháp ngăn chặn.
- Biện pháp cần thiết và khả năng cho phép để ngăn chặn. Khi viện dẫn khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, có thể thấy khi áp dụng các biện pháp và khả năng cho phép không chỉ dừng lại ở việc khắc phục mà chính xác hơn còn phải có nghĩa vụ ngăn chặn trở ngại xảy ra. Theo đó, bên viện dẫn trước tiên có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp để ngăn chặn trở ngại khách quan ảnh hưởng đến khả năng thực hiện hợp đồng nếu tại thời điểm thực hiện hợp đồng bên vi phạm lường trước được trở ngại khách quan có khả năng xảy ra và sau đó, nếu trở ngại vẫn xảy ra thì bên viện dẫn phải áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục.
* Lưu ý: Trong trường hợp các bên trong hợp đồng có thỏa thuận các điều khoản liên quan đến sự kiện bất khả kháng như quy định sự kiện cụ thể được coi là sự kiện bất khả kháng; quy định điều kiện và hạn chế cụ thể để áp dụng sự kiện bất khả kháng; quy định biện pháp khắc phụ cụ thể vẫn áp dụng hoặc không nếu có sự kiện bất khả kháng hay loại trừ không áp dụng hoàn toàn quy định về sự kiện bất khả kháng. Theo nguyên tắc tự do thỏa thuận trong hợp đồng dân sự, các bên hoàn toàn có thể tự thỏa thuận về việc các trường hợp bất khả kháng có thể áp dụng cũng như điều kiện và hậu quả pháp sinh của chúng.
3. Mối liên hệ giữa sự kiện bất khả kháng và dịch Covid-19
Với các yếu tố nêu trên chúng ta hãy cùng xem xét dịch Covid – 19 có phải là một căn cứ để viện dẫn sự kiện bất khả kháng hay không.
i) Sự kiện khách quan
Trên thế giới, ngày 11/3/2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tuyên bố dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 do chủng mới của virus corona (SARS-CoV-2) là một đại dịch toàn cầu.
Ở Việt Nam, ngày 01/4/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã công bố Covid-19 là bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy cơ ở mức độ đại dịch toàn cầu (theo Quyết định 447/QĐ-TTg năm 2020). Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh (khoản 1 Điều 3 Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm 2007).
Dịch bệnh Covid – 19 là một sự kiện khách quan, bởi lẽ đây là một căn bệnh do một loại virus gây nên. Chúng nằm ngoài dự đoán và không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Không xuất phát từ hành vi và lỗi của các bên trong khi họ tham gia hợp đồng. Dịch Covid – 19 vượt qua sự trù tính, dự liệu của của con người. Vì thế, đây là một trong những sự kiện được coi là sự kiện khách quan. Đối với trường hợp các bên có thỏa thuận những sự kiện nào được xem là sự khách quan để viện dẫn yếu tố bất khả kháng nhằm miễn trừ thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thì dịch bệnh là một trong những căn cứ thỏa thuận.
ii) Sự kiện không lường trước được
Theo đó, tại thời điểm giao kết hợp đồng các bên không thể lường trước được dịch bệnh sẽ bùng phát trong quá trình thực hiện hợp đồng của họ. Trong trường hợp các bên ký kết hợp đồng trước khi dịch bệnh Covid-19 được công bố thì có thể xem là sự kiện “không lường trước được” khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, nếu các bên ký kết hợp đồng sau khi có cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã công bố dịch bệnh Covid-19 thì không thể nói rằng các bên biết, không lường trước được Covid-19 sẽ xảy ra hay không lường trước được cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp phong tỏa, cách ly, giãn cách xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19.
iii) Sự kiện không thể khắc phục mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép
Đây là một yếu tố mang tính định tính, được xác định dựa trên từng loại hợp đồng, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Chúng ta phải xem xét các đối tượng viện dẫn điều khoản để làm căn cứ miễn trừ nghĩa vụ đã thực sự áp dụng mọi biện pháp và khả năng cho phép để hạn chế được việc không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng hay không. Từ đó, chúng ta mới có thể kết luận được việc viện dẫn điều kiện áp dụng sự kiện bất khả kháng trở thành một căn cứ để miễn trừ nghĩa vụ.
iv) Hậu quả pháp lý
- Căn cứ Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015, Điều 294 Luật TM 2005, khi viện dẫn thành công đối với sự kiện bất khả kháng thì người viện dẫ không phải chịu trách nhiệm dân sự khi không thực hiện được các nghĩa vụ trong hợp đồng do sự kiện bất khả kháng tác động.
- Đối với việc chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng, BLDS 2015 không có quy định cho chấm dứt/ hủy bỏ hợp đồng do sự kiện bất khả kháng. Còn đối với Luật TM tại khoản 1, khoản 4 Điều 296, hợp đồng vẫn còn tồn tại nhưng các bên được kéo dài thời gian có bất khả kháng, ngoại trừ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hóa hoặc hoàn thành dịch vụ thì có thể chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng khi viện dẫn sự kiện bất khả kháng. Ngoài ra, chúng ta có thể chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng khi mà “không đạt” được mục đích của việc giao kết hợp đồng do sự kiện bất khả kháng xảy ra.
- Đối với nghĩa vụ thanh toán, liệu Covid-19 có thể coi là một sự kiện bất khả kháng để miễn trừ nghĩa vụ thanh toán trong các hợp đồng dân sự hay không. Theo các quy định pháp luật, trừ khi hợp đồng có thỏa thuận thì rất khó để coi Covid–19 là nguyên nhân dẫn đến các bên trong hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Bởi lẽ, dịch Covid–19 không phải nguyên nhân trực tiếp ngăn cản các bên thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
________________________________
Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL
Fanpage: https://www.facebook.com/congtyluatavcounsel
https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/
Website: https://avcounsel.com/
Email: info.avcounsel@gmail.com
Hotline: 094.333.4040
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Trân trọng./.
Xem thêm