ĐƯỢC TẶNG CHO VÉ SỐ CHƯA MỞ THƯỞNG, TIỀN TRÚNG THƯỞNG LÀ CỦA AI?

Dự thảo Án lệ số 08/2024 đã đưa ra một tình huống thực tế là việc tặng cho tài sản là vé số chưa đến thời hạn mở thưởng. Vậy trong trường hợp vé số trúng thưởng thì tiền trúng thưởng sẽ thuộc về ai? Trong trường hợp này, có 02 quan điểm khác nhau giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.

Viện kiểm sát nhân dân cho rằng, việc tặng cho tài sản là tài sản chung nên vợ chồng phải thỏa thuận theo khoản 1 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Việc tự ý tặng cho nếu như không có sự đồng ý của một bên vợ/chồng thì người tặng cho chỉ được định đoạt 50% giá trị tờ vé số trúng thưởng.

Tuy nhiên, Tòa án lại cho rằng việc tặng cho được diễn ra tại thời điểm vé số chưa mở thưởng nên đối tượng của hợp đồng tặng cho là tờ vé số chưa được mở thưởng. Trong khi đó, giá trị của tờ vé số chưa mở thưởng chỉ 10.000 đồng là không đáng kể so với chi phí sinh hoạt hằng ngày. Vì vậy, việc tặng cho này không cần sự đồng ý của người chồng hay người vợ.

1. Tóm tắt nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị Thu D làm công nhân lao động tại cơ sở sản xuất bàn ghế inox P do ông Trần Thanh T làm chủ. Đầu giờ chiều ngày 07/01/2021, khi bà D cùng nhiều công nhân đang lao động thì ông Trần Thanh T mua một số tờ vé số và đưa cho bà D 01 (một) tờ vé số có dãy số 317626 do Công ty xổ số kiến thiết A phát hành, mở thưởng cùng ngày và nói chiều nay nếu tờ vé số này trúng thì chia đều cho các công nhân có mặt trong ngày. Việc ông T đưa cho bà D tờ vé số có nhiều người chứng kiến là bà Phạm Thu H, bà Trịnh Thị L1, bà Huỳnh Thị Thu V, bà Nguyễn Thị Kim L và bà Huỳnh Thị Bích T1.

Khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, bà D nhờ ông Nguyễn Thanh X dò kết quả xổ số thì tờ vé số ông T đưa cho bà lúc đầu giờ chiều trúng giải đặc biệt trị giá 2.000.000.000 đồng. Bà D liền báo cho ông T biết việc tờ vé số trúng thưởng giải đăc biệt. Ông T nói bà D đưa tờ vé số ra để ông T dò lại. Sau khi xác định đúng tờ vé số đã trúng thưởng, ông T cất tờ vé số vào túi áo rồi dặn bà D, ông X và bà Loan là đừng la om xòm, để ông lãnh thưởng dùm rồi chiều 28 Tết nghỉ làm, ông sẽ chia cho công nhân trong xưởng. Nếu chia bây giờ họ nghỉ hết, không có người làm. Vì ông T là chủ cơ sở và ngày 07/01/2021 là ngày 25/11 âm lịch nên bà D tin tưởng, không yêu cầu ông T trả lại tờ vé số. Đến ngày 28 Tết Nguyên đán, ông T chỉ cho các công nhân tiền Tết, chứ không thực hiện lời hứa chia tiền vé số trúng thưởng.

Vì tờ vé số trúng giải đặc biệt trị giá 2.000.000.000 đồng, trừ thuế thu nhập phải nộp 10% = 200.000.000 đồng, còn lại thực lĩnh 1.800.000.000 đồng, trừ đi số tiền Tết mà 18 nguyên đơn đã nhận tổng cộng 183.000.000 đồng thì ông T còn giữ của các nguyên đơn số tiền 1.617.000.000 đồng. Nay các nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu ông Trần Thanh T trả chia đều mỗi nguyên đơn số tiền 85.105.000 đồng.

Ngày 09/11/2021, các nguyên đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu ông T phải trảtiền lãi chậm trả theo mức lãi suất 10%/năm (0.83%/tháng), tính từ ngày 09/02/2021 đến ngày 09/11/2021, với tổng số tiền lãi là 91.459.000 đồng và tiếp tục tính lãi đến ngày xét xử sơ thẩm.

Ông D thừa nhận ngày 07/01/2021 ông có mua 01 (một) tờ vé số do Công ty xổ số kiến thiết tỉnh A phát hành, có dãy số 317626, mở thưởng chiều cùng ngày. Do ông sử dụng điện thoại di động loại bàn phím thông thường, không thể vào mạng Internet để dò kết quả xổ số, nên cuối giờ chiều cùng ngày, ông đưa tờ vé số cho bà D nhờ dò kết quả qua điện thoại di động Smartphone của ông X. Sau khi phát hiện vé trúng giải đặc biệt, bà D mang lại trả cho ông tờ vé số. Bà D nói ông cho bà D tờ vé số là không đúng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2022/DS-ST ngày 15/8/2022, Toà án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long quyết định:

  • Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bị đơn Trần Thanh Tphải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn gồm: Nguyễn Thị Thu D, Nguyễn Thanh X, Nguyễn Thị Kim L, Huỳnh Thị Thu V, Huỳnh Thị Bích T1, Phạm Thu H, Trịnh Thị L1, Phạm Thị Hồng T2, Võ Văn C, Trương Văn Mười H3, Bành Thanh T3, Huỳnh Lâm T4, Hồ Công H4, Võ Văn L2, Cao Minh Đ, Nguyễn Thị Kiều T5, Hồ Quốc S, Trần Văn T7 mỗi người số tiền là 42.552.500 đồng. Tổng cộng là: 765.945.000 đồng.
  • Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về tiền lãi.

Ngày 19/8/2022, ông Trần Thanh T có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.

Ngày 28/8/2022, các nguyên đơn có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.

Ngày 29/8/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long có quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm; đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và sửa án phí dân sự sơ thẩm.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 10/2023/DS-PT ngày 13/01/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định (tóm tắt):

  • Chấp nhận một phần kháng cáo của các nguyên đơn, chấp nhận một phần kháng nghị; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
  • Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2022/DSST ngày 15/8/2022 của Toà án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
  • Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bị đơn Trần Thanh T phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn gồm: Nguyễn Thị Thu D, Nguyễn Thanh X, Nguyễn Thị Kim L, Huỳnh Thị Thu V, Huỳnh Thị Bích T1, Phạm Thu H, Trịnh Thị L1, Phạm Thị Hồng T2, Võ Văn C, Trương Văn Mười H3, Bành Thanh T3, Huỳnh Lâm T4, Hồ Công H4, Võ Văn L2, Cao Minh Đ, Nguyễn Thị Kiều T5, Hồ Quốc S, Trần Văn T7 mỗi người số tiền là 85.105.000 đồng.
  • Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về tiền lãi.

Ngày 09/02/2023, ông Trần Thanh T có đơn đề nghị xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 125/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 25/5/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2022/DS-ST ngày 15/8/2022 của Toà án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long và hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 10/2023/DS-PT ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Quyết định giám đốc thẩm số 148/2023/DS-GĐT ngày 09 tháng 8 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản” của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành  phố Hồ Chí Minh:

  • Giao dịch giữa ông T và bà D là hợp đồng tặng cho tài sản theo Điều 466 Bộ luật Dân sự hay hợp đồng gửi giữ tài sản theo Điều 559 Bộ luật Dân sự thì pháp luật không bắt buộc lập thành văn bản. Nên cần dựa vào các chứng cứ khác để xác định sự thật khách quan của vụ án.
  • Mặc dù ông T không thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn nhưng xác định được sau khi xảy ra sự kiện trúng thưởng vé số thì ông T đã tự ý di dời camera quan sát ở xưởng, giao người khác đi lĩnh thưởng, có lời khai mâu thuẫn về địa điểm lĩnh thưởng chứng tỏ ông T muốn che giấu sự việc. Đồng thời, tiền thưởng tết cho công nhân tại xưởng lại nhiều hơn các năm. Do đó, có cơ sở xác định ông T đã cho bà D và các công nhân đi làm ngày 07/01/2020 tờ vé số và điều kiện là nếu trúng thì chia đều cho các công nhân.
  • Mệnh giá tờ vé số chỉ là 10.000 đồng, so với chi phí tiêu dùng hàng ngày thì không đáng kể, nên ông T có thể tự định đoạt mà không cần có sự đồng ý của vợ là bà Nguyễn Thị Thùy D1, vì không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng ông T chỉ được định đoạt 50% giá trị vé số trúng thưởng là không chính xác bởi vì đối tượng tặng cho là tờ vé số chưa mở thưởng chứ không phải tờ vé số đã trúng thưởng.

Vì vậy, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 125/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 25/5/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 10/2023/DS-PT ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

2. Nội dung Dự thảo án lệ:

Khái quát nội dung của án lệ:

  • Tình huống án lệ: Một bên vợ hoặc chồng tặng cho tài sản là 01 tờ vé số chưa mở thưởng cho người khác, sau đó tờ vé số này trúng thưởng.
  • Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải xác định  tài sản tặng cho là tờ vé số chưa mở thưởng nên việc tặng cho tài sản không cần sự đồng ý của người vợ hoặc chồng của người tặng cho.

Quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ:

  • Điều 457, khoản 1 Điều 458 Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Từ khoá của án lệ: “Hợp đồng tặng cho tài sản”; “Tặng cho vé số”; “Không cần sự đồng ý của người vợ hoặc chồng”.

Nội dung án lệ: Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án” tại Quyết định giám đốc thẩm số 148/2023/DS-GĐT ngày 09 tháng 8 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản” của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành  phố Hồ Chí Minh.

“[4] Tại thời điểm ông T cho bà D và các công nhân tờ vé số thì mệnh giá tờ vé số chỉ là 10.000 đồng, so với chi phí tiêu dùng hàng ngày thì có giá trị không đáng kể, nên ông T có thể tự ý định đoạt mà không cần phải có sự đồng ý của bà Nguyễn Thị Thùy D1 (vợ ông T), vì không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng ông T chỉ có quyền địa đoạt 50% giá trị tờ vé số trúng thưởng là xác định không chính xác đối tượng của hợp đồng. Trong vụ án này, phải xác định đối tượng của hợp đồng tặng cho tài sản giữa ông T và các nguyên đơn là tờ vé số chưa mở thưởng chứ không phải là tờ vé số trúng thưởng. Khi tờ vé số trúng thưởng, nếu bà D vẫn là người cầm giữ thì bà D có nghĩa vụ lĩnh thưởng và chia đều cho các nguyên đơn theo điều kiện đã giao kết với ông T. Nhưng do ông T đã cầm lại tờ vé số, đã lĩnh thưởng thì ông T phải có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền trúng thưởng của tờ vé số cho các nguyên đơn, như Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định là đúng.”

Trong trường hợp trên, có sự không thống nhất quan điểm giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã đưa ra đường lối xét xử đúng đắn có tính chuẩn mực. Đây là tình huống phát sinh nhiều trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tặng cho tài sản chung của vợ chồng. Do đó, để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc có tình huống pháp lý tương tự, Vụ pháp chế và Quản lý khoa học đề xuất phát triển quyết định giám đốc thẩm trên thành án lệ.

____________________________________

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL

? Fanpage: https://www.facebook.com/luatsuavcounsel

                  https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/

? Website: https://avcounsel.com/

? Email: info.avcounsel@gmail.com

☎️ Hotline: 094.333.4040

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Trân trọng./.


Tin tức liên quan

 KHI BỊ CẢN TRỞ THĂM CON SAU LY HÔN THÌ NÊN LÀM GÌ?
KHI BỊ CẢN TRỞ THĂM CON SAU LY HÔN THÌ NÊN LÀM GÌ?

126 Lượt xem

CON NUÔI THỰC TẾ VÀ TRANH CHẤP DI SẢN THỪA KẾ LIÊN QUAN
CON NUÔI THỰC TẾ VÀ TRANH CHẤP DI SẢN THỪA KẾ LIÊN QUAN

62 Lượt xem

CĂN CỨ NÀO ĐỂ TÒA CHẤP NHẬN LY HÔN? THẾ NÀO LÀ TÌNH TRẠNG CỦA VỢ CHỒNG TRẦM TRỌNG?
CĂN CỨ NÀO ĐỂ TÒA CHẤP NHẬN LY HÔN? THẾ NÀO LÀ TÌNH TRẠNG CỦA VỢ CHỒNG TRẦM TRỌNG?

344 Lượt xem

QUY ĐỊNH VỀ NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
QUY ĐỊNH VỀ NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

138 Lượt xem

THỦ TỤC NHẬN CON NUÔI TRONG NƯỚC HỢP PHÁP TỪ A-Z MỚI 2024
THỦ TỤC NHẬN CON NUÔI TRONG NƯỚC HỢP PHÁP TỪ A-Z MỚI 2024

104 Lượt xem

CÓ ĐƯỢC YÊU CẦU BỎ TÊN CHA TRÊN GIẤY KHAI SINH KHÔNG?
CÓ ĐƯỢC YÊU CẦU BỎ TÊN CHA TRÊN GIẤY KHAI SINH KHÔNG?

122 Lượt xem

CÓ THỂ LY HÔN TẠI NƠI MỘT TRONG HAI NGƯỜI ĐANG LÀM VIỆC ĐƯỢC KHÔNG? THỦ TỤC NHƯ THẾ NÀO?
CÓ THỂ LY HÔN TẠI NƠI MỘT TRONG HAI NGƯỜI ĐANG LÀM VIỆC ĐƯỢC KHÔNG? THỦ TỤC NHƯ THẾ NÀO?

58 Lượt xem

GIÀNH QUYỀN NUÔI CON TRÊN 3 TUỔI KHI LY HÔN
GIÀNH QUYỀN NUÔI CON TRÊN 3 TUỔI KHI LY HÔN

86 Lượt xem

CÓ CÔNG NHẬN HÔN NHÂN THỰC TẾ HAY KHÔNG?
CÓ CÔNG NHẬN HÔN NHÂN THỰC TẾ HAY KHÔNG?

342 Lượt xem

CÁCH XÁC ĐỊNH MỨC CẤP DƯỠNG CHO CON ? VỢ/CHỒNG KHÔNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG BỊ XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO?
CÁCH XÁC ĐỊNH MỨC CẤP DƯỠNG CHO CON ? VỢ/CHỒNG KHÔNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG BỊ XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO?

378 Lượt xem

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG, TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG, TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

167 Lượt xem

THÊM TÊN CHA, TÊN MẸ VÀO GIẤY KHAI SINH CHO CON
THÊM TÊN CHA, TÊN MẸ VÀO GIẤY KHAI SINH CHO CON

62 Lượt xem


Bình luận
  • Đánh giá của bạn
Đã thêm vào giỏ hàng