CẤU THÀNH TỘI PHẠM CỦA TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Sau đây, AV Counsel chia sẻ cho Quý bạn đọc về cấu thành tội phạm này theo quy định của pháp luật.
- Cơ sở pháp lý: Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (Sau đây gọi là Bộ luật hình sự)
- Nội dung:
Điều 323 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017
“Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
1. Cấu thành tội phạm
a. Khách thể
Trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, bên cạnh đó còn gián tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, bên cạnh đó còn gián tiếp xâm phạm đến quyền tài sản của người khác.
b. Khách quan
Đối với tội chứa chấp tài sản do người phạm tội mà có: thể hiện qua hành vi chứa chấp (nhận cất giữ, cất giấu, bảo quản hoặc cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, cất giấu, bảo quản,...) tài sản cho người khác mà mình biết rõ tài sản này là do người đó phạm tội mà có được mặc dù không có hứa hẹn trước với người có tài sản.
Đối với tội tiêu thụ tài sản do người phạm tội mà có: thể hiện ở hành vi tiêu thụ (chuyển dịch quyền sở hữu tài sản như mua, bán, trao đổi, cho, tặng, sử dụng....) tài sản cho người khác mà mình biết rõ tài sản này do người đó phạm tội mà có được mặc dù không hứa hẹn trước với người có tài sản.
Hậu quả xảy ra không phải là điều kiện bắt buộc trong cấu thành tội này mà chỉ là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người phạm tội mà có.
c. Chủ thể
Bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực chịu trách nhiệm hình sự
d. Chủ quan
Thực hiện với lỗi cố ý (Người phạm tội biết rõ là tài sản do người đó phạm tội mà có nhưng vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ). Trường hợp người chứa chấp hoặc tiêu thụ không biết được tài sản đó là do phạm tội mà có thì không cấu thành tội chứa chấp hoặc tội tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.
2. Hình phạt
Gồm 04 khung hình phạt:
- Khung 1 (khoản 1): bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2 (khoản 2): Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
- Khung 3 (khoản 3): Phạt tù từ 07 năm đến 10 năm.
- Khung 4 (khoản 4): Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
3. Bàn về cụm từ “biết rõ” trong CTTP
* Quan điểm thứ nhất: Cụm từ “biết rõ” là thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Ý thức chủ quan này phải được chính người phạm tội thừa nhận bằng lời khai. Nếu đối tượng khai không biết là tài sản do người khác phạm tội mà có thì cho dù có các tài liệu khác như: Chính lời khai của đối tượng bán hoặc lời khai của người liên quan; thu được tài sản tại nhà đối tượng tiêu thụ; tài liệu thể hiện đối tượng mua tài sản với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thật… thì vẫn không xử lý hình sự được. Quan điểm này đưa ra căn cứ dựa trên cơ sở cấu thành cơ bản của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 323 BLHS năm 2015, trong đó nội dung điều luật đã ghi cụ thể ý thức chủ quan của người phạm tội phải là “biết rõ” tài sản do người khác phạm tội mà có, nếu người phạm tội không “biết rõ” thì bất cứ lý do gì cũng không đủ yếu tố cấu thành tội này.
* Quan điểm thứ hai: Dấu hiệu “biết rõ” cần được hiểu một cách toàn diện, không cứng nhắc và cần được đánh giá trên cơ sở “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan”. Quan điểm này cho rằng các cơ quan tố tụng không được phụ thuộc vào lời khai của đối tượng có nhận tội hay không, nếu phụ thuộc vào lời khai của đối tượng thì sẽ không thể xử lý hình sự được đối với loại tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có này, dẫn đến không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Phân tích quan điểm này cho thấy rằng:
- Thứ nhất, Theo khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, VKSND tối cao, TAND tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 về tội "Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" và tội "Rửa tiền" quy định:
Điều 1. Giải thích từ ngữ quy định tại Điều 250, Điều 251 BLHS năm 1999:
“2. Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
Do đó, “biết rõ” trong tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là “có căn cứ chứng minh”, chứ không nêu là đối tượng phải “khai nhận” hoặc nhận tội mới là “biết rõ”. Việc “có căn cứ chứng minh” ở đây rất rộng, bao gồm các tài liệu, chứng cứ vật chất mà Cơ quan điều tra thu thập được, chứ không phải là duy nhất chứng cứ về chủ quan (lời khai nhận) của tội phạm, và chúng phải đánh giá một cách tổng quát, toàn diện các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết có trong hồ sơ để kết luận đối tượng có “biết rõ” hay không, chứ không được phụ thuộc vào duy nhất lời khai của đối tượng.
Ngoài ra, kế thừa Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã giải thích thế nào là “có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội” tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của BLHS năm 2015 về tội rửa tiền như sau:
“4. Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có là một trong các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
b) Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
c) Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
d) Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó)”
Qua quy định trên cho thấy, mặc dù quy định này hướng dẫn cho tội rửa tiền theo Điều 324 BLHS năm 2015, tuy nhiên đều hướng dẫn về cách nhận biết, đánh giá thế nào là trường hợp “biết hay có cơ sở để biết tài sản là do người khác phạm tội mà có” nên có thể vận dụng đối với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nghiên cứu hướng dẫn tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP thì chỉ duy nhất nội dung trong điểm a là đề cập đến vấn đề đối tượng tiêu thụ trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có. Các điểm còn lại (gồm điểm b, c, d) thì đưa ra các trường hợp buộc đối tượng phải tự nhận thức được đó là tài sản phạm pháp, như: Biết tài sản do phạm tội mà có qua phương tiện thông tin đại chúng (điểm b); bằng nhận thức thông thường có thể biết được nguồn gốc tiền của người thân (điểm c); theo quy định của pháp luật thì buộc phải biết nguồn gốc tài sản vì đây là tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền (điểm d).
Như vậy, về mặt căn cứ pháp luật đã có văn bản hướng dẫn việc đánh giá thế nào là trường hợp “biết rõ” hoặc “biết” hoặc “có cơ sở để biết” tài sản là do người khác phạm tội mà có. Trong đó, đã chỉ ra nhiều căn cứ để đánh giá ý thức chủ quan của người phạm tội và không bắt buộc người phạm tội phải thừa nhận mới đủ cơ sở để kết tội.
- Thứ hai: Mặc dù chưa có văn bản nào quy định nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan”, nhưng thực tiễn các cơ quan tố tụng đã vận dụng nguyên tắc này khá phổ biến trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là trong các vụ án bị can không nhận tội, hoặc bị can được sự “tư vấn” để biết cách chối tội. Khi đối phó với những đối tượng ngoan cố, không nhận tội này thì các cơ quan tố tụng cần phải có biện pháp, cách thức để đấu tranh. Biện pháp thường được cơ quan tố tụng áp dụng đó chính là việc đánh giá, sử dụng và khai thác các tài liệu, chứng cứ liên quan trong hồ sơ để chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng, mà không phụ thuộc việc đối tượng có thừa nhận hay không thừa nhận hành vi phạm tội của mình – Đây chính là hình thức biểu hiện của nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan” đang diễn ra trong thực tiễn hoạt động tố tụng hiện nay.
Liên hệ với tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” cũng vậy, cơ bản đối tượng sẽ không chịu thừa nhận việc mình biết tài sản đó là tài sản do trộm cắp, cướp giật mà có. Ví dụ: A nhiều lần mua xe máy của B (xe do B trộm cắp được) với giá rẻ và không có giấy tờ, nhưng A ngoan cố không thừa nhận việc biết xe đó là xe trộm cắp. Trong trường hợp này, nếu chúng ta chỉ phụ thuộc vào lời khai của A thì sẽ không xử lý được vì A kiên quyết khai không “biết rõ” tài sản của B là do trộm cắp mà có. Vậy, nếu đối tượng không nhận tội thì các cơ quan tố tụng sẽ không có cách nào để xử lý hành vi này? Hay không có cách nào để chứng minh một người “biết rõ” tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ vì người này không thừa nhận gì? Không lẽ các cơ quan tố tụng chỉ dùng duy nhất một lời khai nhận tội của đối tượng để buộc tội còn không quan tâm đến các tài liệu, chứng cứ khác? Có thể áp dụng nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan” trong tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bởi những căn cứ như sau:
Một là: Căn cứ quy định của pháp luật tại điểm c, d khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP đã thể hiện tinh thần của nguyên tắc hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan ở chỗ: “c. Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có”; và “d. Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có”. Như vậy, với quy định này thì không cần đối tượng phải tự khai ra là mình biết rõ tài sản phạm pháp, mà chỉ cần chứng minh các tình tiết liên quan để buộc đối tượng phải tự nhận biết được đó là tài sản do phạm tội mà có.
Hai là: Căn cứ vào các tài liệu, tình tiết liên quan để khai thác, đánh giá ý thức chủ quan của đối tượng, buộc đối tượng phải nhận thức được hành vi phạm tội của mình. Cụ thể, trong vụ án tiêu thụ xe máy trộm cắp, cần chứng minh những vấn đề sau để đánh giá ý thức chủ quan của đối tượng tiêu thụ, buộc đối tượng tiêu thụ phải biết đó là tài sản do phạm tội mà có, đó là: Tình trạng khi giao xe thì ổ khóa xe có bị phá; khi giao xe máy đối tượng bán không đưa chìa khóa xe; xe không có biểm kiểm soát (có nhiều trường hợp đối tượng sau khi trộm cắp đã tháo biển xe để tránh bị phát hiện); mua xe máy không giấy tờ (trong khi ai cũng biết xe máy là tài sản phải có Giấy đăng ký xe); giá bán thấp hơn hẳn so với giá thực tế (có thể so sánh qua kết luận định giá); số lần đến bán xe nhiều hay ít, tần suất liên tục hay thỉnh thoảng (để xác định đối tượng lý do gì mà có nhiều xe máy cũ không giấy tờ như thế); thời gian đối tượng đến bán là ban đêm… Khi có đủ căn cứ để xác định: Một đối tượng trong một thời gian ngắn mà liên tục đến bán xe máy cũ với giá rẻ, không giấy tờ, không biển kiểm soát, xe trong tình trạng bị phá ổ khóa, khi bán xe không có chìa khóa… thì đây sẽ là các chứng cứ vật chất để chứng minh ý thức chủ quan của đối tượng tiêu thụ tài sản, nên không nhất thiết phải cần đến lời khai nhận của đối tượng nữa mới là đủ cơ sở để buộc tội. Việc đối tượng khai không nhận thức được là tài sản phạm pháp chỉ là không thành khẩn, quanh co chối tội và dùng các tài liệu trên để buộc đối tượng phải chịu trách nhiệm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
- Thứ ba: Khi xây dựng điều luật, các nhà làm luật đã đều đặt mục tiêu hiệu quả của pháp luật phải đạt được, tức là quy phạm pháp luật đã thông qua thì phải áp dụng được trong thực tiễn, nếu không sẽ là thất bại bởi mục đích của pháp luật không đạt được trong quá trình áp dụng. Vậy, để làm sao mục đích của pháp luật đạt được thì lại phụ thuộc rất nhiều vào người áp dụng pháp luật, như: Người áp dụng pháp luật có nhận thức đúng và đầy đủ tinh thần của điều luật không; việc áp dụng luật có linh hoạt hay cứng nhắc…
Tương tự, trong trường hợp áp dụng Điều 323 BLHS năm 2015 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, chúng ta cần hiểu điều luật một cách đầy đủ, toàn diện để vận dụng linh hoạt theo hướng phù hợp với thực tiễn, phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội này, như vậy mới đạt được mục đích của pháp luật đặt ra và đảm bảo quy định của Điều 323 BLHS đi vào cuộc sống. Nếu vận dụng cứng nhắc, hậu quả sẽ là các cơ quan tố tụng không thể xử lý được tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, trong khi tội phạm này đang tiềm ẩn sự mất an ninh trật tự rất lớn và có phần tác động đến việc phát sinh các loại tội cướp, cướp giật, trộm cắp… hiện nay.
Từ những phân tích trên, thấy rằng: Tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là một hệ quả tất yếu do nhóm tội xâm phạm sở hữu gây ra và là một hình thức.
4. Một số bất cập để bào chữa
Thứ nhất, người có được tài sản chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người tiêu thụ tài sản có phải chịu trách nhiệm trách nhiệm hình sự không?
Ví dụ: Ngày 16/9/2019 Nguyễn Văn A (sinh năm 2005-chưa đủ 16 tuổi) đã lẻn vào cửa hàng bán điện thoại di động trộm 1 chiếc điện thoại trị giá 4 triệu đồng, sau đó bán cho B với giá 2 triệu đồng, B biết rõ chiếc điện thoại này là tài sản trộm cắp nhưng vẫn đồng ý mua. Sau đó A và B bị công an bắt, chiếc điện thoại được Hội đồng định giá tài sản định giá 3 triệu đồng. Sau khi vụ án xảy ra có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến hành vi của B.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 của BLHS năm 2015 vì điều luật quy định hành vi không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Trong trường hợp nêu trên B biết rõ chiếc điện thoại A có được là do trộm cắp; hơn nữa tài sản có giá trị 3 triệu nên B đã tiêu thụ tài sản do A phạm tội; do vậy việc B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ là phù hợp, tránh bỏ lọt tội phạm.
Quan điểm thứ hai cho rằng: B không phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì hành vi của Nguyễn Văn A không đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này; tài sản A có được đem tiêu thụ cho B chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành chính mà không phải là hành vi phạm tội; trong khi điều luật xác định tài sản tiêu thụ phải là tài sản có được do hành vi “phạm tội” mà có; điều đó có nghĩa để truy cứu trách nhiệm hình sự của B thì A cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội để có được tài sản. Do vậy hành vi của B không cấu thành tội phạm mà chỉ là vi phạm hành chính nên B chỉ bị truy cứu trách nhiệm hành chính.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất: B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS. Vì điều luật quy định hành vi không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Trong trường hợp nêu trên mặc dù A chưa đến tuổi truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng hành vi khách quan và giá trị tài sản A chiếm đoạt đã thỏa mãn hành vi khách quan của tội phạm; việc A không bị xử lý hình sự là do chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người phạm tội là người chưa đủ 16 tuổi. Tài sản do B tiêu thụ đã thỏa mãn điều kiện về giá trị tài sản của tội trộm cắp tài sản và thực tế B đã tiêu thụ tài sản do A phạm tội nên hành vi của B đã cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Ngoài ra nguyên nhân dẫn đến việc hiểu không đúng quy định của luật và có nhiều quan điểm khác nhau trong ví dụ nêu trên có lẽ do nhiều người hiểu sai thuật ngữ “thực hiện tội phạm” và “ thực hiện phạm tội”; đây có thể do lỗi kỹ thuật của nhà làm luật. Nhưng về bản chất người có tài sản bất hợp pháp đem đi chứa chấp, tiêu thụ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và được BLHS quy định, còn việc họ có bị xử lý hay không hoặc xử lý như thế nào thì không phải là điều kiện bắt buộc để xem xét trách nhiệm của người chứa chấp, tiêu thụ tài sản.
Thứ hai, người có được tài sản được miễn trách nhiệm hình sự thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Quan điểm thứ nhất: Cho rằng trường hợp này người chứa chấp hoặc tiêu thụ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quan điểm thứ hai: Cho rằng trường hợp này người có được tài sản được miễn trách nhiệm hình sự nên người chứa chấp hoặc tiêu thụ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tùy từng trường hợp mà người tiêu thụ có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Cụ thể, trường hợp người đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 1 Điều 29 của BLHS do có sự thay đổi về chính sách pháp luật, làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm nữa (tức là hành vi của người có được tài sản không còn là tội phạm được quy định trong BLHS) thì người tiêu thụ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Riêng đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự do được đại xá theo điểm b khoản 1 hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 Điều 29 của BLHS thì đây là chính sách nhân đạo pháp luật đối với người phạm tội. Việc miễn này chỉ trong trường hợp đặc biệt của đất nước, hoặc có đủ điều kiện nhưng về bản chất sau khi đại xá, hoặc miễn trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với cá nhân người phạm tội; trong khi các tội phạm mà họ đã thực hiện trước đó vẫn được quy định trong BLHS, nên người tiêu thụ tài sản do những người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nêu trên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự; vì hành vi của họ là nguy hiểm cho xã hội.
Thứ ba, có cần xác định giá trị tài sản tiêu thụ hay không?
Cũng ví dụ trên, trong trường hợp A là người đã thành niên (là người trên 18 tuổi, không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt); giả sử Hội đồng định giá chiếc điện thoại mà A chiếm đoạt được trị giá 1,5 triệu đồng thì B có phạm tội không?
Có quan điểm cho rằng: B không phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì theo quy định khoản 1 Điều 173 BLHS quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”. Như vậy hành vi của A không đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” vì tài sản A chiếm đoạt được dưới 2 triệu đồng và không thuộc các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 1 Điều 173 BLHS.
Như vậy không cần phải xác định giá trị tài sản chứa chấp, bởi lẽ: Vì theo cấu thành tội phạm của tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” thì người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản buộc phải biết rõ tài sản đó do người khác phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ phải biết rõ tài sản đó có giá trị thực tế như thế nào và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa; mà chỉ cần người đó có ý thức chủ quan biết rõ tài sản mà mình tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có là đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội quy định tại Điều 323 BLHS.
Thứ tư, người tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có bắt buộc phải biết rõ đối tượng phạm tội có được tài sản không?
Trong thực tiễn đã xảy ra trường hợp khi có đủ căn cứ chứng minh ý thức chủ quan của các bị can nhận thức rõ, biết rõ tài sản chứa chấp là do người khác phạm tội mà có nhưng không xét xử được với lý do: Chưa xác định được đối tượng trộm cắp tài sản, chưa biết có đủ cơ sở để truy cứu TNHS đối tượng này về trộm cắp tài sản hay không (do độ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự của họ chưa làm rõ), nên tài sản tiêu thụ đó có phải do phạm tội mà có hay không cũng chưa xác định.
Cấu thành cơ bản của tội phạm này về ý thức chủ quan thì chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản phải biết rõ tài sản đó do người khác phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa và xử lý như thế nào. Do đó, nếu có căn cứ chứng cứ chứng minh họ không hứa hẹn trước và ý thức chủ quan của họ biết rõ tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ do người khác phạm tội mà có thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng cần sớm sửa đổi Điều 323 của BLHS để tránh dẫn đến hiểu sai quy định của pháp luật. Cần sửa đổi, bổ sung cụm từ “thực hiện tội phạm” vào tên và nội dung của điều luật, cụ thể: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác thực hiện tội phạm mà có”; “1. Người nào … do người khác thực hiện tội phạm mà có”. Mặt khác, cơ quan có thẩm quyền cần thiết phải ban hành hướng dẫn mới thay thế Thông tư số 09/2011; đồng thời hướng dẫn thống nhất áp dụng những vấn đề còn bỏ ngỏ.
Trên đây là nội dung chia sẻ của AV Counsel liên quan đến "Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác thực hiện tội phạm mà có" kính mời quý bạn đọc tham khảo, góp ý.
_____________________________________
Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL
Fanpage: https://www.facebook.com/congtyluatavcounsel
https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/
Website: https://avcounsel.com/
Email: info.avcounsel@gmail.com
Hotline: 094.333.4040
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Trân trọng./.
Xem thêm