CĂN CỨ KHÔNG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Quyết định khởi tố hay không khởi tố một vụ án hình sự là một trong những quyết định tố tụng quan trọng, đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng và đánh giá toàn diện các căn cứ pháp lý. Các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự không chỉ đơn thuần là những quy định mang tính kỹ thuật mà còn phản ánh những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự và tố tụng hình sự. Việc hiểu rõ bản chất và ý nghĩa của những căn cứ này là điều cần thiết đối với những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và cả những công dân quan tâm đến sự công bằng của xã hội.
Cơ sở pháp lý:
- Hiến pháp năm 2013;
- Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Nội dung:
Điều 157 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự gồm:
“Điều 157. Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, .141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.”
Thứ nhất, không có sự việc phạm tội.
Khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiến hành kiểm tra, xác minh. Qua quá trình này mà xác định được không có dấu hiệu phạm tội thì quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, hành vi không cấu thành tội phạm.
Cấu thành tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng được quy định trong Bộ luật Hình sự, mô tả một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà nhà nước coi là tội phạm. Nói một cách đơn giản, đó là khung pháp lý để xác định một hành vi cụ thể có phải là tội phạm hay không.
Cấu thành tội phạm phải có đầy đủ 4 yếu tố, đó là: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm. Cấu thành tội phạm bao gồm cấu thành hình thức và cấu thành vật chất.
- Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà trong đó có các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại do hành vi gây ra.
- Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm mà trong đó có dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan mà không có dấu hiệu hậu quả thiệt hại.
Hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu của 01 cấu thành tội phạm cụ thể được quy định tại Bộ luật Hình sự thì không cấu thành tội phạm đó. Do đó, hành vi cấu thành tội phạm phải có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Ví dụ, một người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng mà không có tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 174 Bộ luật Hình sự thì không cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ ba, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ quan trọng để quyết định việc có khởi tố tội phạm hay không. Dù cho xác định được người phạm tội có hành vi phạm tội nhưng chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì không khởi tố đối với người này.
Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Thứ tư, người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”. Do đó, nếu một hành vi phạm tội đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi này, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. (Điều 14 Bộ luật Tố tụng Hình sự)
Khi vụ án đang được giải quyết mà cơ quan có thẩm quyền quyết định đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ đối với một hoặc một số bị can khi có căn cứ theo các Điều 248, 282 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng không được khởi tố vụ án hình sự mới về cùng hành vi phạm tội đó.
Việc tiếp tục tố tụng vụ án này chỉ được thực hiện khi có căn cứ để hủy quyết định đình chỉ vụ án bằng quyết định phục hồi vụ án theo Điều 249 và 283 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Thứ năm, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo khoản 1 Điều 27 Bộ luật Hình sự:
“Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Việc xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết là một trong những căn cứ quan trọng trong việc khởi tố vụ án hình sự.
Tuy nhiên, có một số tội phạm không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự.
- Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật Hình sự.
- Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của Bộ luật Hình sự; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật Hình sự.
Đồng thời, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có thể tái lập nếu người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Trường hợp người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Thứ sáu, tội phạm đã được đại xá.
Đại xá được hiểu là sự khoan hồng của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn cho một số loại tội phạm nhất định với hàng loạt người phạm tội nhân sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước.
Theo Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có thẩm quyền Quyết định đại xá.
Do đó, nếu có Quyết định của Quốc hội về việc đại xá đối với tội phạm mà chưa khởi tố vụ án thì không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ bảy, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì cơ quan tiến hành tố tụng không khởi tố đối với vụ án đó, bởi lúc này không còn người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự cũng như không đảm bảo được các nguyên tắc tố tụng hình sự quy định.
Đồng thời, mục đích của việc khởi tố, truy tố, xét xử người phạm tội là nhằm trừng phạt, răn đe, giáo dục với chính người phạm tội, nếu người phạm tội chết thì không còn đạt được mục đích này.
Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt cần tái thẩm thì vụ việc vẫn tiếp tục được xử lý theo quy định.
Điều 397 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định:
“Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.”
Ví dụ, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết nhưng có căn cứ cho rằng người này không thực hiện hành vi mà là một người khác thì phải thực hiện tái thẩm.
Thứ tám, tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, .141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự, chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Cụ thể là tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều sau:
- Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác).
- Điều 135 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái bị kích động mạnh).
- Điều 136 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội).
- Điều 138 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác).
- Điều 139 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính).
- Điều 141 (Tội hiếp dâm).
- Điều 143 (Tội cưỡng dâm).
- Điều 155 (Tội làm nhục người khác).
- Điều 156 (Tội vu khống).
- Điều 226 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp)
Trường hợp bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố thì không khởi tố vụ án hình sự và đình chỉ vụ án, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Trên đây là nội dung CĂN CỨ KHÔNG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ.
____________________________________
Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL
Fanpage: https://www.facebook.com/congtyluatavcounsel
https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/
Website: https://avcounsel.com/
Email: info.avcounsel@gmail.com
Hotline: 094.333.4040
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Trân trọng./
Xem thêm