KHÁNG CÁO QUÁ HẠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ – PHÂN TÍCH PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Kháng cáo là một trong những quyền tố tụng cơ bản và quan trọng của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nhằm đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền kháng cáo phải tuân thủ chặt chẽ về thời hạn theo quy định của pháp luật. Trong thực tiễn tố tụng, không ít trường hợp đương sự có đơn kháng cáo nhưng nộp quá thời hạn luật định. Khi đó, để đảm bảo tính hợp lý, hợp pháp và tạo điều kiện cho đương sự chứng minh lý do chính đáng, pháp luật quy định trách nhiệm của Tòa án sơ thẩm trong việc yêu cầu người kháng cáo giải trình, xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh lý do kháng cáo quá hạn. Đây là một bước thủ tục quan trọng trong việc xem xét chấp nhận hay không chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn và thể hiện rõ nét tính nhân đạo, linh hoạt của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.  Bài viết này phân tích toàn diện các quy định pháp luật liên quan, đồng thời đối chiếu với thực tiễn xét xử nhằm làm rõ cơ sở pháp lý, điều kiện chấp nhận và các hệ quả liên quan đến việc kháng cáo quá hạn trong tố tụng dân sự.

Điều 270 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định, Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.

Tuy nhiên, trên thực tế, không phải mọi đơn kháng cáo đều được nộp đúng thời hạn luật định. Trong nhiều trường hợp, vì lý do khách quan hoặc chủ quan, đương sự nộp đơn kháng cáo trễ – đây chính là hiện tượng kháng cáo quá hạn, làm phát sinh những hệ quả pháp lý đáng lưu ý.

Theo Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người có quyền kháng cáo gồm: Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Theo Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thời hạn kháng cáo như sau:

  • Đối với bản án sơ thẩm:
    Thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (nếu đương sự có mặt), hoặc từ ngày nhận được bản án/niêm yết (nếu vắng mặt có lý do chính đáng).

  • Đối với quyết định tạm đình chỉ/đình chỉ:
    Thời hạn là 7 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc ngày quyết định được niêm yết.

  • Cách tính thời hạn trong trường hợp đặc biệt:
    Nếu đơn kháng cáo gửi qua đường bưu điện thì ngày gửi đơn là ngày tổ chức dịch vụ bưu chính đóng dấu; nếu người kháng cáo đang bị tạm giam, thì ngày xác nhận của giám thị trại giam là ngày kháng cáo.

Khi nào bị coi là kháng cáo quá hạn?

Kháng cáo quá thời hạn quy định tại Điều 273 của Bộ luật này là kháng cáo quá hạn. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm.

Trình tự thủ tục xử lý đơn kháng cáo quá hạn:

  • Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm gửi đơn và bản tường trình lý do cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm.

  • Trong 10 ngày, Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm 3 Thẩm phán để mở phiên họp xét đơn. Phiên họp có sự tham dự của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và người kháng cáo quá hạn.

  • Trường hợp người kháng cáo hoặc kiểm sát viên vắng mặt, Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.

  • Căn cứ hồ sơ và ý kiến tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận, có nêu rõ lý do.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo quá hạn, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp; nếu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định.

Theo Án lệ số 21/2018/AL được Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2018 trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng cho thuê tài sản” tại tỉnh Quảng Ninh giữa nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn D với bị đơn là Công ty cổ phần C [Tải tại đây]

Tại phần [4] Nhận định của Tòa án:

[4] Theo biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 18-01-2012, đại diện Công ty D có mặt tại phiên tòa nên phải biết nội dung và quyết định của Tòa án. Ngày 10-02-2012, Công ty D mới có đơn kháng cáo (dấu bưu điện nơi gửi là ngày 25-02-2012, dấu công văn đến ngày 27-02-2012) là đã quá hạn theo quy định tại Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Công ty D cho rằng lý do kháng cáo quá hạn là do đại diện Công ty không nghe rõ chủ tọa tuyên án là không có căn cứ theo quy định tại mục 5 phần I Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo quá hạn là đúng.

Theo quy định tại Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (nay là điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết….

Dù đơn kháng cáo bị đơn ngày 10/02/2021 nhưng theo quy định tại điểm b.2 tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Trường hợp người kháng cáo gửi đơn kháng cáo đến Toà án cấp sơ thẩm qua bưu điện, thì Toà án phải ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo do bưu điện chuyển đến và ngày, tháng, năm người kháng cáo gửi đơn theo ngày, tháng, năm có dấu bưu điện nơi gửi đơn vào sổ nhận đơn. Phong bì có dấu bưu điện phải được đính kèm đơn kháng cáo. Ngày kháng cáo được xác định là ngày có dấu bưu điện nơi gửi đơn.

Trường hợp không có hoặc không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện nơi gửi trên phong bì, thì Toà án phải ghi chú trong sổ nhận đơn và vào góc bên trái của đơn kháng cáo là “không xác định được ngày, tháng, năm”. Trường hợp này ngày kháng cáo được xác định là ngày Toà án nhận được đơn. Khi kiểm tra đơn kháng cáo, nếu thấy đơn kháng cáo này quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do bằng văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 246 của BLTTDS và hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 mục 5 Phần I của Nghị quyết này. Nếu đơn kháng cáo đúng hạn quy định tại Điều 245 của BLTTDS, thì Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục quy định tại Điều 248 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 6 Phần I của Nghị quyết này.”

Theo dấu bưu điện nơi bị đơn gửi kháng cáo là ngày 25/02/2012 như vậy bị đơn kháng cáo quá hạn. Lý do kháng cáo quá hạn mà bị đơn đưa ra không phải là lý do chính đáng. Tiểu mục 5 phần I Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP nói trên hướng dẫn Điều 274 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 đã giải thích: ““Lý do chính đáng” là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác (như: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện...) làm cho người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định.” thì việc kháng cáo quá hạn mới được Tòa án chấp nhận. Do đó, tại Quyết định số 87/2012/KDTMPT-QĐ ngày 17/5/2012 Tòa án nhân dân tối cáo tại Hà Nội đã chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn của bị đơn.

Trong vụ án tại án lệ nêu trên, Tòa án phúc thẩm đã không chấp nhận lý do kháng cáo quá hạn của nguyên đơn là “không nghe rõ chủ tọa tuyên án”, vì lý do này không được coi là chính đáng theo quy định tại Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006.0

Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP hết hiệu lực ngày 01/7/2013 và được thay thế bởi Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP, hết hiệu lực ngày 01/07/2016 và chưa có văn bản thay thế. Tuy nhiên, tinh thần pháp lý tiếp tục được kế thừa trong thực tiễn xét xử, đặc biệt thể hiện tại Điều 6 Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP quy định:

1. Trường hợp đơn kháng cáo là của người có quyền kháng cáo, nội dung kháng cáo thuộc giới hạn kháng cáo, nhưng quá thời hạn kháng cáo quy định tại Điều 245 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 4 của Nghị quyết này mà người kháng cáo chưa tường trình hoặc có tường trình nhưng lý do kháng cáo quá hạn không rõ ràng, thì Toà án cấp sơ thẩm phải có văn bản yêu cầu người kháng cáo tường trình cụ thể bằng văn bản về lý do kháng cáo quá hạn và xuất trình tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo quá hạn tường trình cụ thể bằng văn bản về lý do kháng cáo quá hạn và xuất trình tài liệu, chứng cứ (nếu có) trong thời hạn do Toà án cấp sơ thẩm ấn định nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày người kháng cáo nhận được thông báo của Toà án yêu cầu làm bản tường trình về lý do kháng cáo quá hạn. Toà án có thể giao trực tiếp hoặc gửi văn bản này cho người kháng cáo qua bưu điện.

“Lý do chính đáng” là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác (như: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện,...) làm cho người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định.”

Khái niệm “lý do chính đáng” tiếp tục được duy trì: đó là những tình huống bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, như thiên tai, lũ lụt, tai nạn, ốm đau phải điều trị tại bệnh viện… khiến người kháng cáo không thể thực hiện việc kháng cáo trong thời hạn luật định.

Ngoài ra, trình tự xử lý kháng cáo quá hạn – từ việc tiếp nhận, yêu cầu tường trình, chuyển hồ sơ lên cấp phúc thẩm, đến việc tổ chức phiên họp gồm 3 thẩm phán và đại diện Viện kiểm sát – cho thấy đây là một thủ tục chặt chẽ, không chỉ là thủ tục hình thức mà có tính chất quyết định đến việc vụ án có được xét xử lại hay không. Điều này phản ánh tính chặt chẽ, minh bạch trong hệ thống tố tụng dân sự, đồng thời đảm bảo rằng quyền kháng cáo không bị lạm dụng, nhưng cũng không bị tước đoạt một cách máy móc.

Tóm lại, cơ chế xử lý kháng cáo quá hạn không chỉ là thủ tục pháp lý mang tính kỹ thuật mà còn phản ánh sự dung hòa giữa bảo đảm quyền con người (quyền kháng cáo) và yêu cầu ổn định pháp luật, trật tự tố tụng. Tòa án không chỉ đóng vai trò phán xét mà còn phải chủ động hướng dẫn, yêu cầu, thu thập chứng cứ trong giai đoạn tiền xét xử để bảo đảm rằng mọi quyết định đều dựa trên cơ sở rõ ràng, hợp lý và công bằng. Đây là một bước tiến đáng ghi nhận trong hệ thống tư pháp dân sự Việt Nam hiện nay.

Từ các phân tích trên có thể thấy, kháng cáo quá hạn là một hiện tượng phổ biến trong thực tiễn tố tụng dân sự, phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đã thiết lập một cơ chế pháp lý tương đối đầy đủ và cụ thể để xử lý tình huống này, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc hướng dẫn và yêu cầu đương sự giải trình lý do kháng cáo quá hạn, đồng thời đặt ra nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh lý do chính đáng, điều này không chỉ nhằm bảo đảm tính minh bạch, nghiêm ngặt trong thủ tục tố tụng mà còn thể hiện sự tôn trọng quyền kháng cáo của công dân trong trường hợp có trở ngại khách quan, bất khả kháng. Tuy nhiên, để cơ chế này vận hành hiệu quả, đòi hỏi Tòa án cần nâng cao trách nhiệm trong khâu đánh giá, thẩm tra lý do chậm trễ và bảo đảm rằng việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo quá hạn phải dựa trên căn cứ pháp luật rõ ràng, nhất quán. Đây là một cơ chế pháp lý hợp lý, vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương sự, vừa bảo đảm trật tự và hiệu quả của hoạt động tố tụng.

Trên đây là bài phân tích của chúng tôi.

_____________________________________

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL

? Fanpage: https://www.facebook.com/congtyluatavcounsel

                  https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/

? Website: https://avcounsel.com/

? Email: info.avcounsel@gmail.com

☎️ Hotline: 094.333.4040

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Trân trọng./.


Tin tức liên quan

INCOTERMS CÓ PHẢI LÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT KHÔNG?
INCOTERMS CÓ PHẢI LÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT KHÔNG?

31 Lượt xem

Incoterms – tập quán do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành – là một trong những bộ quy tắc được sử dụng phổ biến nhất. 

GHI GIÁ THẤP TRÊN HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG ĐẤT - LỢI BẤT CẬP HẠI
GHI GIÁ THẤP TRÊN HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG ĐẤT - LỢI BẤT CẬP HẠI

37 Lượt xem

Trong các giao dịch bất động sản, không khó bắt gặp các tình huống giá chuyển nhượng thực tế thấp hơn giá trên hợp đồng chứng, điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý. AV Counsel sẽ phân tích cụ thể cho  bạn đọc qua bài viết sau đây.

 

CAM KẾT, THỎA THUẬN TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
CAM KẾT, THỎA THUẬN TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

29 Lượt xem

Tài sản của vợ chồng luôn là một nội dung quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình, bởi nó liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mỗi bên trong quan hệ vợ chồng. Việc xác định đúng tài sản chung, tài sản riêng không chỉ đảm bảo trật tự pháp lý mà còn hạn chế các tranh chấp phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản. Chính vì vậy, vợ chồng có thể cam kết, thoả thuận về việc quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản riêng nhằm đảm bảo quyền lợi

TRANH CHẤP NỘI BỘ DOANH NGHIỆP
TRANH CHẤP NỘI BỘ DOANH NGHIỆP

49 Lượt xem

Tranh chấp nội bộ doanh nghiệp là những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình vận hành và quản trị công ty, thường liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích hoặc cách thức điều hành giữa các thành viên, cổ đông và người quản lý.

CÓ ĐƯỢC TÁCH THỬA ĐỐI VỚI ĐẤT ĐƯỢC HƯỞNG THỪA KẾ?
CÓ ĐƯỢC TÁCH THỬA ĐỐI VỚI ĐẤT ĐƯỢC HƯỞNG THỪA KẾ?

33 Lượt xem

PHÁ KÉT TRỘM  TIỀN - PHẠM MỘT TỘI HAY HAI?
PHÁ KÉT TRỘM  TIỀN - PHẠM MỘT TỘI HAY HAI?

46 Lượt xem

GIAO DỊCH CHUYỂN NHƯỢNG VÔ HIỆU, BÊN NHẬN ĐÃ CÓ SỔ VÀ THẾ CHẤP: GIAO DỊCH THẾ CHẤP CÓ VÔ HIỆU KHÔNG?
GIAO DỊCH CHUYỂN NHƯỢNG VÔ HIỆU, BÊN NHẬN ĐÃ CÓ SỔ VÀ THẾ CHẤP: GIAO DỊCH THẾ CHẤP CÓ VÔ HIỆU KHÔNG?

9 Lượt xem

ĐIỀU KIỆN HIẾN TẠNG KHI CHẾT NÃO
ĐIỀU KIỆN HIẾN TẠNG KHI CHẾT NÃO

169 Lượt xem

TẠM NỘP THUẾ TNDN HÀNG QUÝ - CÓ BẮT BUỘC KHÔNG?
TẠM NỘP THUẾ TNDN HÀNG QUÝ - CÓ BẮT BUỘC KHÔNG?

41 Lượt xem

TỪ KÝ KẾT ĐẾN CHẤM DỨT: QUẢN LÝ HỢP ĐỒNG THUÊ BẤT ĐỘNG SẢN HIỆU QUẢ
TỪ KÝ KẾT ĐẾN CHẤM DỨT: QUẢN LÝ HỢP ĐỒNG THUÊ BẤT ĐỘNG SẢN HIỆU QUẢ

65 Lượt xem

ĐẤT ĐƯỢC CHA MẸ CHO VỢ CHỒNG, SỔ ĐỎ CHỈ MỘT NGƯỜI ĐỨNG TÊN CÓ ĐÚNG LUẬT?
ĐẤT ĐƯỢC CHA MẸ CHO VỢ CHỒNG, SỔ ĐỎ CHỈ MỘT NGƯỜI ĐỨNG TÊN CÓ ĐÚNG LUẬT?

21 Lượt xem

Nguồn gốc thửa đất được xác định thuộc quyền sử dụng của cha mẹ, tuy nhiên chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, cha mẹ đã cho vợ chồng người con quản lý, sử dụng đất để xây dựng nhà ở, nhưng việc cho tặng này không có văn bản, tài liệu chứng minh.


Bình luận
  • Đánh giá của bạn
Đã thêm vào giỏ hàng