PHÁ KÉT TRỘM TIỀN - PHẠM MỘT TỘI HAY HAI?
Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, không hiếm trường hợp người phạm tội chỉ với mục đích chiếm đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi lại gây thiệt hại đến tài sản khác của chủ sở hữu. Một tình huống điển hình là trường hợp Nguyễn Văn A phá két sắt để trộm cắp tiền, lấy được 5.000.000 đồng, trong khi chiếc két bị phá hủy trị giá 10.000.000 đồng.
Vấn đề pháp lý đặt ra là: Nguyễn Văn A có phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội danh “Trộm cắp tài sản” và “Hủy hoại tài sản”, hay chỉ bị xử lý về một tội duy nhất là “Trộm cắp tài sản”?
Bài viết dưới đây, AV Counsel sẽ phân tích vụ việc nhằm làm rõ vấn đề này.
Căn cứ pháp lý:
-
Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Tội trộm cắp tài sản.
-
Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
-
Giải đáp số 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024 của Tòa án nhân dân tối cao về vướng mắc trong xét xử.
Nôi dung:
1. Cấu thành tội phạm
1.1 Tội Trộm cắp tài sản
Được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí mật chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản cuả người khác thành của mình.
- Mặt khách thể:
Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, được pháp luật hình sự bảo vệ.
Đây là một trong những tội danh phổ biến nhất trong nhóm tội xâm phạm sở hữu, đồng thời thể hiện rõ ý chí chiếm đoạt tài sản trái pháp luật của người phạm tội.
- Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, tức là người phạm tội bí mật thực hiện việc chuyển dịch tài sản ra khỏi sự quản lý hợp pháp của chủ sở hữu.
Hành vi chiếm đoạt này dẫn đến việc chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản mất quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, trong khi người phạm tội lại chiếm giữ và thực hiện các quyền đó một cách trái pháp luật.
Ví dụ: Nguyễn Văn A lén đột nhập vào nhà người khác vào ban đêm, mở tủ lấy 5.000.000 đồng mang về nhà – đây là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút, bí mật, đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Dấu hiệu đặc trưng – tính lén lút:
“Lén lút, bí mật” là dấu hiệu đặc trưng phân biệt tội trộm cắp với các tội chiếm đoạt khác (như cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt…).
Việc che giấu hành vi phạm tội có thể thể hiện qua nhiều hình thức:
-
Che giấu toàn bộ hành vi: Chủ tài sản không biết gì về người phạm tội và hành vi chiếm đoạt (ví dụ: kẻ trộm lợi dụng đêm tối, lẻn vào nhà lấy tài sản).
-
Che giấu một phần hành vi: Chủ tài sản biết người phạm tội nhưng không nhận ra hành vi phạm tội (ví dụ: giả vờ hỏi đường, rồi lén lấy điện thoại).
-
Che giấu tính chất hành vi: Hành vi diễn ra công khai nhưng người khác không biết đó là hành vi phạm tội (ví dụ: lợi dụng đám đông trong tiệc cưới để dắt xe đi như người quen).
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt: Giá trị tài sản là căn cứ xác định trách nhiệm hình sự.
-
Người chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 173 BLHS.
-
Nếu tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng, chỉ bị truy cứu khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm (trong thời hạn chưa được coi là chưa bị xử phạt, theo Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, sửa đổi 2020);
- Đã bị kết án về tội trộm cắp hoặc các tội chiếm đoạt khác, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
- Tài sản là di vật, cổ vật theo quy định tại Luật Di sản văn hóa năm 2024 (Điều 3: di vật là hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là di vật có từ 100 năm tuổi trở lên).
Đối tượng của tội phạm:
Đối tượng bị xâm hại là tài sản – bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015.
Tuy nhiên, trên thực tế, quyền tài sản (ví dụ: quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ) khó có thể là đối tượng của tội trộm cắp vì không thể lén lút chiếm đoạt được. Việc chuyển dịch các quyền này thường phải thông qua thủ tục pháp lý công khai do Nhà nước quy định.
Trong trường hợp có hành vi gian dối để chuyển dịch quyền tài sản, hành vi đó sẽ cấu thành tội phạm khác, chẳng hạn như lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện, nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
- Chủ thể:
Bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
1.2 Tội huỷ hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản:
Theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc thuộc các trường hợp đặc biệt, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Huỷ hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản của người khác bị hỏng đến mức mất hẳn giá trị hoặc giá trị sử dụng và không thể khôi phục lại được hoặc bị tiêu huỷ hoàn toàn.
Làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất một phần hoặc giảm giá trị, giá trị sử dụng nhưng ở mức độ có thể khôi phục lại được.
- Mặt khách thể:
Tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
- Mặt khách quan:
Hành vi phạm tội thể hiện ở việc cố ý tác động đến tài sản của người khác, làm tài sản:
-
Bị hủy hoại hoàn toàn, tức mất hẳn giá trị hoặc giá trị sử dụng, không thể khôi phục được (ví dụ: đốt nhà người khác làm cháy rụi toàn bộ);
-
Hoặc bị hư hỏng, tức mất một phần giá trị, nhưng có thể khôi phục, sửa chữa được (ví dụ: đập vỡ kính xe ô tô, phá khóa cửa...).
Hành vi phạm tội có thể được thực hiện:
-
Bằng hành động: trực tiếp đốt, phá, đập, cài thuốc nổ… gây hư hại cho tài sản;
-
Bằng không hành động: cố tình bỏ mặc tài sản bị hư hại trong khi có trách nhiệm ngăn chặn (ví dụ: lái xe bỏ xe nổ máy để xe lao xuống vực, gây thiệt hại nghiêm trọng).
Điểm cần lưu ý là mức độ thiệt hại là căn cứ phân biệt giữa hai tội danh:
-
Nếu tài sản bị hư hại một phần ⇒ Tội cố ý làm hư hỏng tài sản;
-
Nếu tài sản bị tiêu hủy hoàn toàn ⇒ Tội hủy hoại tài sản.
Giá trị thiệt hại là căn cứ định tội:
-
Nếu từ 2.000.000 đồng trở lên, người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu TNHS;
-
Nếu dưới 2.000.000 đồng, chỉ bị xử lý hình sự khi thuộc một trong các trường hợp:
-
Đã bị xử phạt hành chính về hành vi tương tự mà còn vi phạm (chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt);
-
Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
-
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
-
Tài sản bị xâm hại là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại;
-
Tài sản là di vật hoặc cổ vật theo quy định tại Luật Di sản văn hóa 2024 (Điều 3 khoản 6, 7).
-
- Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp, tức là nhận thức được hậu quả thiệt hại tài sản nhưng vẫn mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Cần phân biệt: nếu hành vi hủy hoại tài sản nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân, thì không xử lý theo Điều 178 mà phải xem xét theo Điều 114 BLHS – Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Chủ thể:
Bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
2. Đối với tình huống trên
Vấn đề pháp lý đặt ra:
Nguyễn Văn A có hành vi phá két sắt nhằm mục đích trộm cắp tài sản và đã lấy được số tiền 5.000.000 đồng; chiếc két sắt bị hủy hoại trị giá 10.000.000 đồng.
Vậy, Nguyễn Văn A chỉ phạm một tội “Trộm cắp tài sản”, hay phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội gồm “Trộm cắp tài sản” và “Hủy hoại tài sản”?
Mặc dù động cơ chính của Nguyễn Văn A là chiếm đoạt tài sản, song để đạt được mục đích đó, A đã thực hiện hành vi phá két – một hành vi tác động vật chất trực tiếp làm hư hỏng, mất giá trị sử dụng của tài sản khác. Chiếc két sắt là tài sản độc lập của chủ sở hữu, có giá trị riêng biệt với số tiền bên trong, và hành vi phá két đã xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản này.
Theo quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao tại Giải đáp số 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024 hướng dẫn như sau:
“2. Nguyễn Văn A có hành vi phá két sắt nhằm mục đích trộm cắp tài sản và đã lấy được số tiền 5.000.000 đồng; két sắt do Nguyễn Văn A hủy hoại có giá trị 10.000.000 đồng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A chỉ phạm 01 tội là “Tội trộm cắp tài sản” hay phạm 02 tội là “Tội trộm cắp tài sản” và “Tội hủy hoại tài sản”. Mặc dù Nguyễn Văn A chỉ có động cơ, mục đích là trộm cắp nhưng buộc Nguyễn Văn A phải nhận thức hành vi phá két sắt là hủy hoại tài sản của người khác. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn A cấu thành 02 tội là “Tội trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 và “Tội hủy hoại tài sản” quy định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).”
Như vậy, hành vi của Nguyễn Văn A xâm phạm đồng thời hai khách thể độc lập:
-
Khách thể thứ nhất: Quyền sở hữu đối với tài sản bị chiếm đoạt (số tiền 5.000.000 đồng) → cấu thành Tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
-
Khách thể thứ hai: Quyền sở hữu đối với tài sản bị phá hoại (chiếc két sắt trị giá 10.000.000 đồng) → cấu thành Tội hủy hoại tài sản theo Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Trên đây là bài phân tích của chúng tôi.
_____________________________________
Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL
Fanpage: https://www.facebook.com/congtyluatavcounsel
https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/
Website: https://avcounsel.com/
Email: info.avcounsel@gmail.com
Hotline: 094.333.4040
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Trân trọng./.
Xem thêm