CÁC TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ

Tại AV Counsel, chúng tôi tiếp nhận vô vàn hoàn cảnh khác nhau của khách hàng tìm đến để được giải đáp về quyền thừa kế di sản. Mỗi vụ việc là một câu chuyện riêng, phản ánh những khía cạnh phức tạp của quan hệ gia đình và pháp luật.

Pháp luật thừa kế đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người đã khuất, đồng thời đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong quá trình phân chia tài sản. Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của những người liên quan mà còn góp phần duy trì sự ổn định và trật tự xã hội.

Để ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật thừa kế, pháp luật hiện hành đặt ra chế định đối với những người không có quyền hưởng di sản.

Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Dân sự năm 2015.

Nội dung:

Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

“Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản

1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.”

1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó

Trong trường hợp này, để xác định được người không được quyền hưởng di sản cần phải hội đủ hai điều kiện:

(1) Điều kiện về nội dung:

Người được quyền hưởng di sản đã có hành vi“cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó”.

Đồng thời, người được quyền hưởng di sản phải thực hiện hành vi này với lỗi “cố ý”. Trường hợp thực hiện với lỗi “vô ý” thì không thuộc trường hợp bị tước quyền hưởng di sản. Ví dụ, trong trường hợp người thừa kế chỉ bị kết án về hành vi vô ý làm chết người để lại di sản, người đó vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật.

Ở đây, chúng ta phải chứng minh được có việc “xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó. Tuy nhiên, việc chứng minh này

(2) Điều kiện về hình thức:

Hành vi “cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó” phải bị “kết án”.

Có nghĩa là, phải có một bản án có hiệu lực của Tòa án tuyên xử rằng người được quyền hưởng di sản có một trong các hành vi nêu trên đối với người để lại di sản.

Có ý kiến cho rằng dù đã được xóa án tích nhưng người phạm tội với các hành vi nêu trên cũng không có quyền hưởng di sản của người để lại di sản. Ngoài ra cũng có ý kiến rằng, người được quyền hưởng di sản đã được xóa án tích thì sẽ được quyền hưởng di sản vì các hành vi phạm tội đã được “xóa”

Đây cũng là một vấn đề bất cập bởi quy định này đặt ra nhằm tước đi quyền hưởng di sản thừa kế, nếu được xóa án tích thì liệu có phù hợp không khi mà người này được “tái lập” lại quyền yêu cầu phân chia di sản. Trường hợp di sản chưa chia thì có được xem xét chia không? Trường hợp di sản đã chia thì người này lại yêu cầu Tòa án chia lại phần di sản đã chia thì sẽ giải quyết ra sao?

Để xét đến trường hợp này còn tùy thuộc vào quan điểm của mỗi Tòa án khi tiến hành phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, đối với quan điểm AV Counsel thì quyền được hưởng di sản đã bị tước đi khi người được hưởng quyền di sản đã bị kết án và không được tái lập quyền này.

2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản

Người có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng với người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật nhưng cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng làm cho người đó lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng thì không có quyền hưởng di sản của người đó để lại.

Hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nghĩa vụ nuôi dưỡng có thể được hiểu là những hành động thể hiện sự thờ ơ, vô trách nhiệm, hoặc cố ý không thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và tinh thần cho người đó.

Để tước quyền hưởng di sản, người được thừa kế phải thuộc trường hợp có “nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản” và đã có hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nghĩa vụ này.

Trường hợp này, việc xác định có “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản” vẫn còn là những vi phạm mang tính định tính, chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, để xác định có hay không có việc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản vẫn phải do Tòa án quyết định.

3. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng

Tương tự như trường hợp (1), người có các hành vi xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản phải là hành vi “cố ý” và phải bị “kết án” thì mới bị mất quyền hưởng di sản.

“Người thừa kế khác được hiểu là người thừa kế có quyền hưởng di sản trong cùng một hàng với người có hành vi bị kết án là cố ý giết người thừa kế cùng hàng đó. Tuy nhiên, người thừa kế khác có thể là người thừa kế khác hàng nhưng người thừa kế bị giết chỉ có thể là người thừa kế ở hàng thừa kế trên liền kề với hàng thừa kế của người có hành vi phạm tội nhưng phải giết toàn bộ người thừa kế tại hàng trước đó hoặc là từ hai người hoặc một người duy nhất và trong trường hợp không có người thừa kế thế vị nào” (PGS.TS Đỗ Văn Đại (2016). Tập 1 Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án. Tp. Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam).

4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

- Đối với việc lập di chúc: Sử dụng các thủ đoạn gian dối, đe dọa hoặc gây áp lực tinh thần, ép buộc hoặc cản trở người có quyền lập di chúc thực hiện ý nguyện của mình, nhằm tác động trái ý chí của người lập di chúc, khiến di chúc không phản ánh đúng nguyện vọng của họ.

- Đối với việc giả mạo di chúc: Việc giả mạo di chúc phải trái với ý chí của người để lại di sản. Điều này có nghĩa là nếu có giả mạo di chúc nhưng giả mạo không trái với ý chí của người quá cố thì người giả mạo di chúc không bị tước quyền hưởng di sản. Để chứng minh di chúc giả mạo trái với ý chí của người để lại di sản, cần phải biết được nội dung của di chúc giả mạo và ý chí của người để lại di sản, sau đó đối chiếu hai yếu tố này để có câu trả lời. Nếu không có chứng cứ chứng minh được ý chí của người để lại di sản thì cõ lẽ chúng ta suy luận là khi người quá cố không nói rõ ý chí của mình trước khi chết thì họ ý định “ngầm” chuyển dịch di sản của mình cho người khác theo các quy định của pháp luật. Do đó, nếu giả mạo di chúc trái với các quy định này cho phép suy luận là trái với ý chí của người để lại di sản.

- Đối với việc sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc: Người có các hành vi này sẽ bị tước quyền hưởng di sản do người có di sản để lại nếu việc này trái với ý chí của người để lại di chúc. Nếu thực hiện những hành vi trên mà không trái với ý chí của người chết thì người này không bị tước quyền thừa kế.

5. Trường hợp loại trừ

Dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí của người lập di chúc và tính nhân văn của pháp luật, những người thuộc các trường hợp nêu trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

Tham khảo: PGS.TS Đỗ Văn Đại (2016). Tập 1 Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án. Tp. Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.

Trên đây là nội dung CÁC TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ.

____________________________________

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT TNHH AV COUNSEL

? Fanpage: https://www.facebook.com/congtyluatavcounsel

                  https://www.facebook.com/luatsuvadoanhnghiep/

? Website: https://avcounsel.com/

? Email: info.avcounsel@gmail.com

☎️ Hotline: 094.333.4040

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Trân trọng./


Tin tức liên quan


Bình luận
  • Đánh giá của bạn
Đã thêm vào giỏ hàng